Cuối tháng 5/1975, sau lễ ăn mừng chiến thắng giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước tại thị trấn Hố Nai, chúng tôi rời thành phố Biên Hòa về đóng quân tại căn cứ Phước Thành (thuộc phường Thắng Tam, thành phố Vũng Tàu). Ðây là căn cứ của Chiến đoàn 52, Sư đoàn 18 bộ binh ngụy Sài Gòn. Con đường 15 trước cổng trụ sở đơn vị nườm nượp xe cộ qua lại, phần lớn là xe đò, xe lam và xe gắn máy. Các quán ăn, nước giải khát, tiệm chụp hình… đã bắt đầu mở cửa trở lại. Không khí cuộc sống đời thường dần trở lại cái ồn ào vốn có trước đây, mặc dù một số người dân còn e ngại khi đi ra đường vì lo còn bất ổn về an ninh. Cũng đúng bởi sau khi ta giải phóng Sài Gòn, một số phần tử xấu là tay chân của chế độ cũ, lợi dụng tình trạng hỗn mang khi Ủy ban quân quản chưa thiết lập trọn vẹn trật tự, chúng ra tay cướp bóc khiến nhiều người lo ngại. Trong bối cảnh ấy, các đơn vị đều thiết quân luật, đơn vị ai có nhiệm vụ ra ngoài mới được phép đi mà phải qua kiểm soát của bảo vệ. Tôi may mắn hơn vì thuộc quân số của Trung đoàn bộ, vả lại cánh bảo vệ thì đều chỗ quen biết nên ra vào doanh trại thường xuyên.
Thực ra thì sau giải phóng, bộ đội ta được chăm lo. Nhu cầu về ăn, mặc không phải lo lắng gì. Mọi chế độ nhu yếu phẩm đều khá dư dả, nhất là cơ quan tôi, Ban hậu cần E33, lại là nơi cấp phát nên chúng tôi được ưu tiên. Khác với ở rừng ăn đói mặc rách, về thành phố những ngày sau giải phóng gần như được bù đắp lại. Lúc này, hàng nhu yếu phẩm từ miền Bắc chở vào khá nhiều, bánh kẹo ăn thoải mái không hết, tôi nghịch ngợm lấy cho mấy con dê con vẫn lảng vảng trước cửa phòng ăn.
Về chuyện đàn dê, khi chúng tôi về tiếp quản doanh trại đã có sẵn tự khi nào. Có mười bốn con cả lớn lẫn bé. Con dê đực to nhất màu đen có chòm râu dài là đầu đàn, hễ nó đi đâu là cả đàn lẽo đẽo đi theo. Ðược cái doanh trại khá rộng, lũ dê tung tăng chạy nhảy khắp chốn. Cỏ thì bạt ngàn nên chúng không thiếu thức ăn. Chuồng dê nằm cạnh bếp ăn được anh nuôi tẩy rửa sạch sẽ hằng ngày. Hỏi ra được biết đây là đàn dê do bọn lính ngụy nuôi để cải thiện, con nào con nấy béo mập, con to nhất chừng hơn ba chục ký. Chỉ mấy tháng, đàn dê đã sinh sôi thêm mấy chú dê con và dăm con nữa đang mang bầu. Lũ dê khá thân thiện với người, đặc biệt là mấy con dê con. Tôi vẫn thường ôm chúng vào lòng vuốt ve. Con dê non có đôi mắt trong veo ngửa lên nhìn hết sức đáng yêu như một đứa trẻ con, miệng ọ ẹ. Tôi nghịch ngợm bóc một chiếc kẹo sữa đút vào miệng nó, con dê thấy lạ nhè ra, miệng chảy đầy rớt dãi. Tôi lại nhét vào bốn năm lần con dê vẫn không chịu, đầu lúc lắc cố làm văng chiếc kẹo ra khỏi miệng, chắc vì không phải thứ khoái khẩu của nó. Tôi lại bắt một con khác, lại giữ mồm tống kẹo. Và cũng như con trước nó không chịu nuốt cái mà tôi coi là của ngon vật lạ đem ra đãi. Bực mình, tôi đứng dậy ôm chặt con dê, cả người cả dê cùng quay tít hơn chục vòng liền. Lúc dừng lại tôi chóng mặt ngã vật ra đất, con dê non tuột khỏi tay định vùng chạy nhưng cũng ngã khuỵu, run như cầy sấy. Cảnh tượng lúc ấy ai có mặt nhìn thấy chắc không khỏi bật cười.
Công việc bận rộn ngày mới tiếp quản căn cứ không cho phép tôi có thì giờ tìm hiểu xuất xứ của đàn dê. Chỉ biết ngày ngày chúng vẫn qua lại cửa phòng tôi ngóng vào và thấy người là quấn quýt. Ðể ý quan sát tôi hết sức ngạc nhiên, dù thuộc bộ móng guốc nhưng lũ dê trèo cây rất giỏi. Một lần tôi đã tận mục hai chú dê chẳng biết bằng cách nào đang đứng chễm trệ trên ngọn cây điều để vươn cổ hái ăn quả non đầu cành. Những lần đi công tác xa nửa tháng về, tôi vẫn thấy chúng quanh quẩn trong sân doanh trại. Nhưng để ý thì thấy thiêu thiếu một vài con, chắc là nhà bếp thịt. Mấy con dê con thì vẫn be be chạy nhảy vô tư như lũ trẻ con; chỉ mấy con dê lớn thì như có ý e ngại khi tôi đến gần. Chúng có vẻ cảnh giác thế nào...
Một chủ nhật tôi có khách đến thăm. Ðó là Thùy, cô y tá quận Xuyên Mộc năm nào tôi kết thân. Thùy vốn người gốc Bắc, gia đình di cư vào Nam từ hồi Pháp thuộc. Gia đình cô là cơ sở cách mạng, từng giúp cán bộ, chiến sĩ ta rất nhiều. Chúng tôi bằng tuổi nhau, hai mươi mốt. Tôi là anh lính giải phóng, mặt mũi non choẹt, còn Thùy đã ra dáng một thiếu nữ già dặn. Nhà cô ở ấp Bàu Lâm, phía Bắc quận Xuyên Mộc, là nơi giao lưu của các vị trí chiến lược phía Ðông Sài Gòn. Các đơn vị của Quân khu miền Ðông và các đơn vị trực thuộc đều hoạt động trong khu vực này, vì thế mà “nhỏ Thùy” (cách gọi của các đồng chí bộ đội lớn tuổi) quen thân hầu hết cán bộ chiến sĩ giải phóng trong vùng. Tôi biết, có không ít mấy chú, mấy anh lính ta chưa vợ “cảm nắng” cô gái này. Nhưng khi nói điều khó nói, nhỏ không ưng nên chỉ khúc khích: “Cháu còn bé”. Với tôi là chỗ thân tình, dù không nói ra nhưng tôi biết nhỏ có ý mến mình vì đã có lần nửa đùa nửa thật, cô cho biết thích lấy chồng người Bắc. Cha Thùy, chú Ba Thành thì không cần giữ gìn, huỵch toẹt nói luôn bằng tiếng Nam pha gốc Quảng Bình: “Tau xem thằng ni được, chừ chúng bây xin tau cho liền con nhỏ đó”. Ông cười phô hàm răng đen xỉn khói thuốc rê, đế thêm: “Mần chi thì mần, nhưng phải ở rể đó nha!”. Biết ông nửa đùa nửa thật, tôi đỏ mặt xấu hổ không nói được câu gì. Liếc nhanh sang Thùy thấy mặt cô cũng đỏ không kém: “Con gái ba mất giá quá mà đem cho không hả ba?”. Mấy anh đi cùng tôi thích chí cười vang nhà.
Bữa liên hoan hôm Thùy đến cũng là bữa cơm chúng tôi chia tay doanh trại cũ để ngày hôm sau chuyển về căn cứ Khưu Ngọc Tước ở Bãi Sau của thành phố Vũng Tàu. Căn cứ Phước Thành rộng rãi được chuyển giao cho Tiểu đoàn 7, vừa thích hợp với việc bảo đảm an ninh cửa ngõ thành phố, vừa thuận lợi cho hoạt động của Trung đoàn bộ. Lẽ dĩ nhiên tôi tiếc đến điếng người vì phải bỏ lại đàn dê. Chúng là của riêng căn cứ này, không ai được mang đi. Sau này có lần nhớ đàn dê, tôi đã từng phóng xe về nơi cũ xem chúng sinh sống ra sao nhưng không được vào cổng vì vướng hàng rào cảnh vệ. Không có nhiệm vụ miễn vào, đem lý do vào xem tình hình đàn dê chỉ làm trò cười cho mấy cậu lính trẻ.
Bữa ăn hôm ấy khá thịnh soạn và có nhiều món thịt dê là chủ đạo như tái chanh, xào lăn, áp chảo... Nhưng suốt từ đầu tới cuối bữa, cô bạn gái tôi không đụng món nào. Chỉ sau khi kết thúc bữa tiệc, Thùy mới nhỏ nhẹ kể với tôi là cô trông thấy cảnh mấy anh lính bếp hành hạ con vật trước khi giết mà thương không nuốt nổi. Tôi phì cười, làm thịt dê phải vậy không thì thịt nó hôi khó ăn. Dẫu biết thế nhưng cô bạn tôi vẫn giữ gương mặt đăm chiêu đầy thương xót…
Sẽ chẳng có gì đáng nói vì chỉ một tháng sau đó tôi có quyết định ra Bắc mà không có dịp về lại Bàu Lâm để chia tay cô bạn gái. Vì quá gấp, tôi chỉ kịp viết lại mấy dòng thư tay nhờ anh em trong đơn vị có dịp gặp Thùy chuyển hộ. Thời gian dần trôi, một ngày tôi bỗng nhận được thư Thùy gửi từ Long Khánh cho biết, cô đã theo gia đình chuyển ra thị xã, không còn ở Bàu Lâm nữa. Trong thư cô nhắc lại những kỷ niệm cũ, và đặc biệt cô lại nhắc tới đàn dê ở căn cứ Phước Thành. “Anh biết không, Thùy đã trở lại nơi đó vì được chú Ba Ân (Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 7) mời đến chơi. Nhưng để bảo đảm công tác huấn luyện quân sự, đơn vị đã chuyển đàn dê về trại tăng gia của Tiểu đoàn ở xã Láng Lớn rồi. Chúng đã sinh sôi nảy nở nhiều lắm, là nguồn cung cấp thực phẩm rất hữu ích cho đơn vị…”. Tiếc rằng sau đó chúng tôi mất liên lạc (vì nhiều lý do trời ơi đất hỡi) để tôi không có dịp hỏi lại Thùy rằng, có còn thương những chú dê vẫn rít lên be be khi bị cột vào cây để đánh cho ra mồ hôi trước khi bị xẻ thịt không, và vân vân…
Hoàng Quân
Ý kiến ()