Quê hương Đào Xá (nay là Đào Quạt, xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi), nói riêng và tỉnh Hưng Yên nói chung, rất tự hào khi có một người có nhiều người tài-đức qua các triều đại mà một trong những người con đó là Giáo sư Phạm Huy Thông. Sẽ là không sai khi hậu duệ thứ 24 vẫn mang trong mình khí chất của Tướng quân Phạm Ngũ Lão-danh tướng nhà Trần góp công rất lớn, giúp Trần Hưng Đạo trong cuộc kháng chiến chiến thắng quân Nguyên- Mông. Thân sinh Giáo sư Phạm Huy Thông là nhà tư sản Phạm Chân Hưng, chủ hiệu vàng Chân Hưng là người giàu có nổi tiếng ở phố Hàng Bạc trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng thời là chủ tờ báo Nông – Công – Thương; chủ tịch khu Đông Kinh Nghĩa Thục (bao gồm phố Hàng Bạc và nhiều khu phố lân cận); Chủ tịch Tuần lễ vàng đầu tháng 9-1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động.
GSVS Phạm Huy Thông (1916-1988) Ảnh: tư liệu gia đình
Giáo sư sinh ngày 22/11/1916. Nhắc đến Giáo sư Phạm Huy Thông, người ta đều có thể kể đến ở ông hội tụ xuất sắc trên nhiều lĩnh vực. Khi mới 16 tuổi ông đã nổi tiếng tiên phong của phong trào Thơ mới, với bài thơ nổi tiếng, Tiếng địch sông Ô. Năm 17 tuổi, ông đỗ tú tài. Năm 20 tuổi đỗ cử nhân luật. Năm 1937, ông sang Pháp tiếp tục theo học chương trình đào tạo trên đại học các ngành lịch sử, địa lý, luật, kinh tế, chính trị. Năm 26 tuổi, ông lần lượt thi đỗ Tiến sĩ Luật và Thạc sĩ sử- địa tại Pháp. Năm 31 tuổi, ông được phong Giáo sư giữ chức Uỷ viên hội đồng giáo dục tối cao của Pháp. Năm 1946 tại Paris, ông được chọn làm thư ký giúp việc Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở hội nghị Fontainebleau. Chính những ngày được gần gũi Hồ Chí Minh, ông đã chọn cho mình con đường mà Hồ Chí Minh đang đi. Năm 1949, ông gia nhập Đảng Cộng sản Pháp. Năm 1953, ông gia nhập Đảng Lao động Việt Nam.
Hơn 40 năm hoạt động, với đức độ, tài năng của mình, Giáo sư Phạm Huy Thông đã được giao đảm trách nhiều vị trí, chức vụ quan trọng: Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam); Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Viện trưởng Viện Khảo cổ học Việt Nam; Quyền Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Khoa học lịch sử Việt Nam; Chủ tịch Hội Du lịch Hà Nội; đại biểu Quốc hội khoá II, khoá III... Năm 2000, ông được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về công trình nghiên cứu khảo cổ (Con Moong, trống đồng Đông Sơn và 4 bài dẫn luận thời đại Hùng Vương). Không chỉ tham gia hoạt động và có uy tín trong nhiều lĩnh vực thuộc khoa học xã hội ở Việt Nam, Giáo sư Phạm Huy Thông còn là người được bạn bè quốc tế quý trọng. Ông được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Cộng hoà dân chủ Đức; là sáng lập viên của Tổ chức quốc tế về giáo dục và là Uỷ viên Hội đồng hoà bình thế giới trong nhiều năm....Nói tóm lại, có thể gọi vắn tắt Giáo sư Phạm Huy Thông là một nhà trí thức yêu nước uyên bác, tài hoa.
Trong bài viết này, tôi muốn đề cập khía cạnh Giáo sư Phạm Huy Thông với tư cách là một nhà báo. Nếu ai đó có dịp ghé thăm Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam (thị trấn Cao Phong, tỉnh Hoà Bình), ở đó có một vị trí khiêm tốn dành cho Giáo sư-Viện sĩ Phạm Huy Thông với một số hiện vật đã nhuốn màu thời gian: một ít tài liệu, giấy tờ; ít ảnh tư liệu; một tấm thẻ Nhà báo; bản thảo viết tay của Giáo sư giai đoạn những năm 1930 và những năm 80 của thế kỷ trước; cái máy đánh chữ đã gắn bó cùng Giáo sư thời gian giúp việc cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Hội nghị Fontainebleau (năm 1946)...
Một điều đặc biệt muốn nói ở đây là: năm nay (2023) là lần giỗ chẵn lần thứ 35 của Giáo sư (1988-2023). Còn ngày mất của Giáo sư, cho đến nay, vẫn còn nhiều tài liệu, nhiều người cho là Giáo sư "ra đi" vào ngày 23 tháng 6. Tuy nhiên, theo sự hiểu biết của người viết bài này và qua chứng cứ khoa học pháp y thì Giáo sư mất vào ngày 21 tháng 6 năm 1988, vô tình lại trùng với Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam, cho nên dễ nhớ.
Nhân đây, qua Báo Hưng Yên, cũng xin ngỏ lời của gia đình Giáo sư Phạm Huy Thông (cụ thể là người em trai của Giáo sư là Giáo sư Phạm Huy Dũng; phu nhân, bà quả phụ Giáo sư Nguyễn Thị Liên) về một số thông tin sai lệch về Giáo sư Phạm Huy Thông. Chẳng hạn có sách viết: "Sang năm 1955, cũng mãi không thấy Phạm Huy Thông đâu. Rồi đến cuối năm mới thấy về. Anh em bảo tôi rằng kháng chiến ta ở Nam Bộ, sau ngày ngừng bắn, đã mời Phạm Huy Thông ra vùng tự do cùng với anh Nguyễn Hữu Thọ. Nhưng Thông từ chối. Ngày ấy bọn thực dân đương cần bù nhìn mới. Thông chùng chiềng đến hạn cuối cùng ở Sài Gòn rồi mới về Hà Nội. Anh em ở Hà Nội không tổ chức đón tiếp gì”. Thực ra năm 1952, Giáo sư phụ trách tổ chức Việt kiều hải ngoại. Cũng trong năm đó ông bị trục xuất khỏi Pháp về Sài Gòn. Ở đó Giáo sư Phạm Huy Thông hoạt động trong phong trào hoà bình cùng Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, năm 1955, ông bị địch bắt và cầm tù ở Sài Gòn sau bị địch quản thúc. Biết nguy cơ Giáo sư sẽ bị hãm hại, Trung ương đã tìm nhiều cách cách giải thoát Giáo sư đưa thẳng về phố Hồ Xuân Hương, nơi Giáo sư ở sau này, được người thân, gia đình, đồng chí, đồng đội, đón tiếp trong không khí rất vui mừng, phấn khởi, nồng nhiệt.
Với tư cách nhà báo, tôi có một kỷ niệm không bao giờ quên với Giáo sư-Nhà báo Phạm Huy Thông. Đó là vào nửa cuối năm 1982, Tạp chí Cộng sản, nơi tôi công tác, chuẩn bị tổ chức Hội thảo khoa học về "Giá trị văn hoá tinh thần Việt Nam", mời nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu văn hoá, nhà quản lý...tham gia. Tôi được phân công mời Giáo sư Phạm Huy Thông viết bài tham luận. Thời ấy, sau giờ làm việc, tôi thường đi bộ từ trụ sở Tạp chí Cộng sản ở phố Nguyễn Thượng Hiền quanh Hồ Thiền Quang rồi rẽ sang phố Hồ Xuân Hương, nơi có một số cơ quan báo chí đóng. Nhờ vậy, từ trước đo, đó tôi biết được nhà ở của Giáo sư. Lần đầu những người tiếp xúc với Giáo sư, bao giờ ông cũng hỏi quê quán, hoàn cảnh, gia đình, công việc. Khi biết tôi là người con của thôn An Cầu, xã Tống Trân, Giáo sư đưa tay cho tôi bắt lần nữa và khích lệ: "Anh phải tự hào là người con của đất Trạng nguyên lưỡng quốc đó nhé!". Chỉ chưa đầy một tuần, tôi đã có trong tay bản thảo đánh máy rô- nê- ô bài viết nhan đề "Những chặng đường phát triển của tinh thần yêu nước-giá trị tinh thần truyền thống cao đẹp nhất, bao trùm nhất của dân tộc Việt Nam". Tôi mang bản thảo về biên tập và nộp đồng chí Trưởng Ban Văn-Xã Tạp chí. Khi nhận lại bản sửa duyệt, phần "Thay lời kết luận" bị gạch bỏ. Vì theo đồng chí Trưởng Ban thì "phần này không cần thiết và bài đã dài rồi!". Tôi đem bản thảo đã sửa duyệt lần đầu để Giáo sư xem lại. Giáo sư chưa đọc ngay mà chỉ lật xem qua từng trang. Thấy phần "Thay lời kết luận" bị bỏ, Giáo sư có vẻ ngạc nhiên và nói: Đoạn "Thay lời kết luận" mới là điều tôi tâm huyết nhất đấy. Nếu bỏ đi, tôi e bài viết không có hậu!". Ít hôm sau, tôi đến xin lại bản thảo. Giáo sư không sửa chữa bao nhiêu, chỉ băn khoăn nếu phần kết bị bỏ. Tôi cầm bản thảo về cơ quan, vô tình gặp Giáo sư-Nhà báo Hồng Chương, Phó Tổng biên tập Tạp chí, ở phòng thường trực Tạp chí. Biết tôi vừa lấy bản thảo từ Giáo sư về, nhà báo Hồng Chương nghe qua chuyện và nói: "Giáo sư Phạm Huy Thông là nhà khoa học uyên bác lắm đó. Phải hết sức cân nhắc trước khi bỏ đi những gì mà Giáo sư đã cầm bút viết ra". Cuối cùng thì đoạn "Thay lời kết luận" đã được giữ lại. Hội thảo khoa học đó được đăng trên các số 11, 12/ 1982 và số 1/1983 Tạp chí Cộng sản. Xin được trích ra đây một đoạn trong "Thay lời kết luận của Giáo sư Phạm Huy Thông: "Một kỷ nguyên mới. Xán lạn hơn bao giờ hết. Sau những lần dựng nước ở kỷ nguyên Đông Sơn, ở kỷ nguyên Đại-Việt, đây là lần thứ ba dân tộc ta dựng nước. Và chưa bao giờ nước mới đem đến những triển vọng tốt đẹp như hiện nay. Một kỷ nguyên mới, lời không ngoa. Đó là vì tinh thần yêu nước, giá trị văn hoá, giá trị tinh thần, giá trị đạo đức cổ truyền cao đẹp nhất đó của dân tộc ta, nhờ công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh..." (Tạp chí Cộng sản số 1/1983, trang 45). Giáo sư là một trong những nhà khoa học đã sớm khẳng định: kỷ nguyên thứ ba của dân tộc Việt Nam xuất phát từ thời đại Hồ Chí Minh.
Ý kiến ()