
Họ là những chàng trai, cô gái hơn nửa thế kỷ trước ở tuổi đôi mươi, tự hào vững tin đi theo lý tưởng cao đẹp của Đảng, của Bác Hồ là phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, giữ trọn lời thề khi tuyên thệ tại lễ kết nạp đảng viên năm nào và trở thành những tấm gương sáng cho thế hệ sau.

Nâng niu tấm huy hiệu Đảng, hồi ức tươi đẹp 74 năm trước một lần nữa trở về với ông Tô Tần ở thôn Tam Kỳ, xã Nghĩa Trụ (Văn Giang). Khoảnh khắc đứng trước lá cờ Đảng tuyên thệ vẫn vẹn nguyên trong lòng, trong trái tim hào sảng của người chiến sĩ Điện Biên Phủ năm xưa...
Tháng 11/1950, chàng thanh niên Tô Tần khi ấy vừa tròn 18 tuổi vinh dự được đứng trong hàng ngũ của Đảng. 74 năm trôi qua, chàng trai ấy nay đã tóc bạc, da mồi, nhưng với sự mẫn tiệp hiếm có, ông rưng rưng nhớ lại: “Thời điểm đó, sau khi xung phong lên đường đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, tôi được kết nạp Đảng. Đơn vị cử tôi sang Trung Quốc học về pháo binh, tháng 6/1951, tôi trở về nước nhận nhiệm vụ tại Đại đoàn pháo binh 351. Từ cuối năm 1953, đơn vị hành quân lên Điện Biên tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ”. Đó là những ngày tháng “nằm gai nếm mật”, “máu trộn bùn non/gan không núng/chí không mòn!” nơi chiến trường. Dù gian khổ, hiểm nguy nhưng người đảng viên trẻ luôn nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ông Tô Tần tiếp tục phục vụ trong quân ngũ đến năm 1977 thì xuất ngũ do bị thương khi chiến đấu. Ông nhận nhiệm vụ công tác mới đến khi về nghỉ hưu.
Từng chứng kiến biết bao lễ kết nạp đảng viên, ông Tô Tần khẳng định, trong buổi lễ, quan trọng nhất là lời thề khi tuyên thệ của đảng viên mới trước cờ Tổ quốc, cờ Đảng và chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lời thề đó được người chiến sĩ Điện Biên Phủ năm xưa cẩn trọng gìn giữ. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ông cũng tự nhắc mình phấn đấu, rèn luyện giữ trọn lời thề thiêng liêng khi đứng trong hàng ngũ của Đảng.
Lời thề đảng viên là sự cam kết những việc mình phải làm, sẽ làm trong suốt cuộc đời, là danh dự, đạo đức và thể hiện nhân cách, tư cách của một người đảng viên - Ông Tô Tần nhấn mạnh.

Phát huy truyền thống bộ đội Cụ Hồ và trách nhiệm nêu gương của đảng viên, nhiều năm liền khi sức khoẻ còn cho phép, hàng tuần ông cần mẫn, nhiệt huyết tham gia các buổi gặp mặt tại Nhà văn hoá thôn Tam Kỳ để thông tin thời sự đến người cao tuổi trong thôn. Giờ đây, tuy đã qua tuổi “thất thập cổ lai hy”, ông vẫn đều đặn dự sinh hoạt chi bộ, tiếp tục phát huy tinh thần của người đảng viên cao tuổi Đảng mẫu mực, góp phần xây dựng Chi bộ thôn Tam Kỳ trong sạch, vững mạnh.

Đã ở tuổi “xưa nay hiếm”, sức khoẻ giảm sút nhiều nhưng khi nhắc về thời tuổi trẻ tự hào được đứng trong hàng ngũ của Đảng, Anh hùng Lao động Phạm Thị Vách (sinh năm 1940) vẫn bồi hồi xúc động. Khi đó, bà Vách là Đội phó Đội Thủy lợi của xã Hùng Cường (Kim Động) nay thuộc thành phố Hưng Yên, đã lập được nhiều thành tích xuất sắc trong phong trào thủy lợi giai đoạn 1958 – 1962, với nhiều sáng kiến và 2 lần được tặng Huy hiệu Bác Hồ, trong đó, năm 1960 Bác Hồ về thăm Hưng Yên và đích thân Người trao huy hiệu lần thứ hai của mình cho bà Vách. Bà kể lại, “Tôi được kết nạp Đảng dịp tháng 5/1962 tại chi bộ thôn Đông Hạ, xã Hùng Cường”.
Vinh dự nối tiếp, cũng trong tháng 5/1962, kiện tướng thuỷ lợi Phạm Thị Vách được bầu đi dự Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ III, tại Hà Nội. Với những thành tích xuất sắc đóng góp trong công tác thủy lợi, bà được phong Anh hùng lao động khi vừa tròn 22 tuổi.

Trong cuộc đời của mình, Anh hùng Lao động Phạm Thị Vách trải qua nhiều vị trí công tác, từng là đại biểu quốc hội khoá III, IV, V, bà Vách vinh dự 22 lần được gặp Bác Hồ. “Mỗi lần được gặp Bác, lời tuyên thệ tại lễ kết nạp lại văng vẳng trong tâm trí, như thôi thúc tôi không ngừng nỗ lực, phấn đấu, làm việc sao cho xứng đáng là “Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam”, bà Vách chia sẻ.

Một lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân đã là hiếm, vậy mà đại úy đặc công nước huyền thoại, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Đức Thụy (sinh năm 1946), quê ở làng Nghĩa Giang, xã Toàn Thắng (Kim Động) hai lần được phong tặng danh hiệu cao quý ấy trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Ngày tôi được kết nạp Đảng cũng chính là ngày sinh nhật Bác Hồ, cách đây 54 năm. Ngay sau khi chiến thắng giòn giã trận đánh giải phóng đảo Long Sơn (nay thuộc xã Long Sơn, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu), ngày 19/5/1970, tôi trở về đất liền để tham dự lễ kết nạp đảng viên tại đơn vị. Lời tuyên thệ tại buổi lễ hôm đó giản dị nhưng thiêng liêng vô cùng. Tôi giơ cao nắm tay thề trước cờ Đảng, cờ Tổ quốc và tượng Bác rằng suốt đời chiến đấu, hy sinh cho chủ nghĩa cộng sản tới giọt máu cuối cùng, hơi thở cuối cùng - Anh hùng Thụy tự hào cười vang.
Thời thanh xuân sung sức, Nguyễn Đức Thụy nổi tiếng bởi tài bơi lội và giỏi võ. Sau khi nhập ngũ năm 1967, thấy được biệt tài đó, cấp trên đã tuyển chọn ông trở thành đặc công nước, góp mặt trong lực lượng đặc biệt tinh nhuệ của chiến trường. Ông kể rất ít về bản thân, nhưng cũng đủ để chúng tôi rùng mình về sự khốc liệt nơi chiến trận khiến người lính đặc công nước quê Nhãn từng 3 lần được đơn vị truy điệu sống. Ông xúc động nói: “Dù hoàn cảnh nào, dù trải qua biết bao hiểm nguy rình rập, nhiều lần vào sinh ra tử, luôn cận kề cái chết nhưng tôi luôn tâm niệm, mình là đảng viên, phải giữ lời thề, sẵn sàng hy sinh thân mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, chống ngoại xâm”.
Ghi nhận những thành tích, công lao của ông, năm 1973 và năm 1976, ông được tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Trong phần đời dữ dội, khốc liệt mà rất đỗi vinh quang ấy, ông cùng đồng đội đã sống trọn vẹn cho lý tưởng của Đảng, của Bác Hồ, cống hiến hết mình cho Tổ quốc. “Lời thề đảng viên từ thuở mười tám đôi mươi, thời cùng đồng đội “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” luôn khắc sâu và nâng cao chí khí cho tôi với niềm tin sắt son là, một người đảng viên ngã xuống thì sẽ có thêm một lớp đảng viên trẻ khác sẵn sàng nối bước đi lên…”, ông Thuỵ xúc động bộc bạch.


Hơn 70 tuổi, cựu chiến binh Nguyễn Trung Chắt, quê ở xã Phú Thịnh (Kim Động) đã nhận nuôi dưỡng hơn 300 trẻ mồ côi tại các ngôi nhà Hy vọng do ông thành lập. Những đứa trẻ bơ vơ, không nơi nương tựa ấy được ông Chắt đón về nuôi nấng, cho đi học đã có được “cuộc đời thứ hai”. Nhiều em nỗ lực học tập, rèn luyện đã trở thành bác sĩ, giáo viên... và được ông dựng vợ, gả chồng.
20 năm trước, sau khi nghỉ hưu một thời gian, ông dùng tiền cá nhân, vay mượn thêm để xây Trung tâm Hy vọng đầu tiên tại Hưng Yên và nhận nuôi 24 trẻ mồ côi. Để giúp đỡ được nhiều hơn những mảnh đời bất hạnh, ông thành lập thêm 2 Trung tâm Hy vọng nữa ở tỉnh Lạng Sơn, nơi ông có nhiều năm gắn bó lúc còn là chiến sĩ nơi phên dậu của Tổ quốc. Dưới các mái ấm Hy vọng, ông kiên nhẫn dạy trẻ tự lập, biết trồng rau, nuôi gà… Sự chăm sóc và giáo dục của ông đã mang đến mái ấm gia đình, cứu rỗi cuộc đời những đứa trẻ thiếu thốn mọi bề.
Khi được hỏi, sao có thể bền bỉ và tận tâm với những trẻ mồ côi đến thế, ông Chắt nói rằng: “Từng là bộ đội Cụ Hồ, được kết nạp Đảng khi vừa tròn 24 tuổi, tôi luôn lấy Bác làm tấm gương soi chiếu, học tập và làm theo Người từ những điều nhỏ nhất. Bác đã từng dạy người cán bộ, đảng viên: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm”, vì vậy, còn sức khỏe tôi tiếp tục lao động, giúp đỡ nhiều hơn nữa những đứa trẻ gặp nhiều bất hạnh trong cuộc sống”.
Anh Ngô Quốc Hưng (sinh năm 1991), là một trong những đứa trẻ đầu tiên được ông Chắt đón về nuôi dưỡng, đã tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội. Anh trở lại Trung tâm Hy vọng ở Lạng Sơn với mong muốn tiếp tục giúp ông chăm lo cho các em nhỏ mồ côi như cách ngày xưa ông chăm lo cho anh. “Với tôi, trở về đây là về nhà!”, anh Hưng bộc bạch.

Với những đảng viên cao tuổi Đảng luôn giữ trọn lời thề, ngày được đứng trong hàng ngũ của Đảng, gương cao nắm tay đọc lời tuyên thệ là ngày thiêng liêng, đánh dấu sự trưởng thành. Lời thề đảng viên vì lẽ đó là động lực thôi thúc lớp lớp đảng viên trung kiên vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, chiến đấu, lao động, cống hiến quên mình, anh dũng hy sinh, góp phần bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.
Thực hiện: Hoàng Linh - Minh Huệ - Dương Miền – Hoàng Dương
Ý kiến ()